Ngôn ngữ của đồ vật
Cuốn sách Văn minh vật chất của người Việt của Phan Cẩm Thượng cung cấp cho ta một lịch sử của dân tộc và đất nước mình, qua các đồ vật do con người từng sống, từng lao động để có thể sống, tồn tại, phát triển, thịnh vượng, suy vong, trầm luân, đau khổ và hạnh phúc… từ ngày trên đất này có con người cho đến hôm nay.
Từ lâu tôi có nhận xét hình như trong những người làm văn học nghệ thuật, hay cả những người làm văn hóa nói chung, thường thấy các họa sĩ có kiến văn rộng và tốt hơn, hoặc ít ra quan tâm đến những điều đó nhiều hơn. Chắc rồi phải tìm cách cắt nghĩa, và những người làm văn hóa nghệ thuật thuộc các ngành khác – kể cả tôi đương nhiên – cũng nên ngẫm nghĩ để mà soi lại mình. Cũng chính các họa sĩ là những người thường quan tâm, hiểu biết sâu sắc, cặn kẽ nhất đời sống thực của nhân dân, không phải nhân dân nói chung mà là những người lao động, đặc biệt lao động thủ công, cách thức lao động, sản phẩm lao động của họ, cặn kẽ và sâu sắc đến ý nghĩa từng động tác lao động của những người vô danh ấy, ý nghĩa tiềm ẩn đến mức có thể chứa đựng trong ấy hàng nghìn năm lịch sử không chỉ của nghề nghiệp, mà cả lịch sử của xã hội, của đất nước, của con người, phổ biến toàn nhân loại, đồng thời lại đặc thù của từng dân tộc, dân tộc ta… mà ta chỉ có thể thật sự yêu đến thiết tha khi thấu hiểu tới tận cùng qua chính lao động và những sản phẩm lao động đó. Tôi thường để ý thấy các họa sĩ rất yêu các đồ vật, đặc biệt các đồ vật thủ công, càng thô sơ càng quý. Họ nâng niu, ân cần gìn giữ chúng như những bảo vật, trưng bày ở những chỗ đẹp nhất, cao quý nhất trong nhà. Trong khi các đại gia và quan chức thì giành những vị trí ấy cho những chai rượu ngoại thượng hạng hay những của lạ mang từ bên tây bên Mỹ về. Cũng là hai thứ văn hóa vậy.
Trong các họa sĩ quen biết, tôi may mắn có một người bạn thân, một họa sĩ và là một nhà văn hóa thật độc đáo và đặc sắc: anh Phan Cẩm Thượng.
Cuốn sách các bạn đang cầm trong tay đây là công trình mới nhất của anh: Văn minh vật chất của người Việt. Hẳn có thể có nhiều cách hiểu thế nào là “văn minh vật chất”. Thôi thì ở đây chắc không có gì trở ngại lắm khi ta tạm đồng ý với cách hiểu của Phan Cẩm Thượng: cái cách con người, trong khi tất yếu phải va chạm với tự nhiên, đã làm ra các công cụ để mà tồn tại, từ tồn tại vật chất cho đến tồn tại về tinh thần, và cũng chính qua đó mà hình thành, phát triển các mối quan hệ với nhau, giữa con người với con người. Ở phương Tây có một thứ chủ nghĩa gọi là “chủ nghĩa đồ vật” (chosisme), tôi không hiểu lắm về cái chủ nghĩa đó, nhưng hóa ra có thể đọc lịch sử của loài người qua những đồ vật do con người làm ra, và có thể đó là lịch sử khách quan và chính xác nhất. Ai cũng biết có nhiều thứ lịch sử: lịch sử của các triều đại, lịch sử của các vị vua, lịch sử của các tướng lĩnh lừng danh, lịch sử của các anh hùng, lịch sử của các danh nhân đủ loại, lịch sử của các chế độ, lịch sử của những biến động xã hội…, lịch sử được viết nên bởi cuộc đời, hành tung của các nhân vật lớn lao và bởi các sự kiện vang dội đó. Nhưng thử nghĩ lại mà xem: tất cả những thứ lịch sử to tát và oai phong ấy đều bắt đầu, đều do, đều được quyết định, biến đổi, phát triển, nảy nở, tàn lụi… bởi cái công cụ bàn tay con người làm ra, sử dụng, cách con người sử dụng chúng. Hơn nữa tất cả những thứ lịch sử trên kia đều do con người viết sau khi chúng đã diễn ra, mà con người thì bao giờ cũng được (hay bị) những động cơ riêng, hoặc chủ quan hoặc khách quan thúc đẩy, họ viết vì một cái gì đó, cho một cái gì hay một ai đó. Cho nên, nói cho cùng và nói thế này hẳn cũng là không quá đáng đâu, tất cả các thứ lịch sử ấy đều không thật hoàn toàn đáng tin. Chúng đều vị lợi. Duy chỉ có những đồ vật do con người làm ra trong khi đối mặt với tự nhiên để tồn tại, và từ đó để sử dụng trong giao tiếp với nhau, là “trung thực” hơn cả, chúng cho ta một lịch sử khách quan và chính xác nhất về con người, đương nhiên nếu ta biết cách đọc được ở chúng, qua chúng. Phan Cẩm Thượng đã cố gắng làm công việc ấy, cuốn sách này của anh cung cấp cho ta một lịch sử của dân tộc và đất nước mình, qua các đồ vật do con người từng sống, từng lao động để có thể sống, tồn tại, phát triển, thịnh vượng, suy vong, trầm luân, đau khổ và hạnh phúc… từ ngày trên đất này có con người cho đến hôm nay. Và hóa ra đó là một lịch sử không chỉ cụ thể mà còn hết sức toàn diện, có lẽ không hề thiếu mặt nào, góc độ và cấp độ nào trong sự sống của con người Việt từ thượng cổ cho đến nay. Người ta thường gọi thời kỳ chưa được ghi chép lại bằng chữ viết là thời tiền sử; chưa hẳn đâu: đồ vật do con người làm ra, kể từ cây gậy để ném chết con thú của người hồng hoang, cũng là lịch sử, chứ sao! Phan Cẩm Thượng gọi đó là lịch sử “văn minh vật chất của người Việt”. Cũng có thể gọi đó là lịch sử văn hóa Việt. Và không chỉ là văn minh, văn hóa “vật chất”. Bộ mặt con người in rõ, có thể là rõ và trung thực hơn hết, trên cái “vật chất” được con người nhào nặn và sáng tạo ấy.
Trước hết là lịch sử của thiên nhiên Việt Nam. Bằng cách nào để biết được thiên nhiên nước ta, sông nước, núi non, đất đai, bùn lầy, nắng mưa, gió bão, lụt lội, hạn hán, nóng lạnh… trên dải đất này từ khi tổ tiên xa xôi nhất của chúng ta có mặt ở đây? Bằng cách nào để biết được tổ tiên xa xưa của chúng ta đã vất vả và can trường lặn lội từ đâu đến đâu, từ những vùng núi hiểm trở nơi đất rắn như đá đến những châu thổ bùn lầy còn chưa kịp sánh đặc, theo những con đường khó nhọc quanh co nào? Và châu thổ bùn lầy đã được con người Việt cổ chinh phục, thuần hóa vì con người như thế nào, từ đất bùn đẩm nước và hoặc còn mặn chát hoặc còn nồng nặc chua phèn, đã được vắt khô dần, chỉ còn ướt át đủ độ nước trong lành ra sao để có thể trồng cấy được mà sinh sống? Học giả Đào Duy Anh đã gọi cuộc vật lộn gian nan và anh hùng của người Việt với đất đai thuở sơ khai đó bằng mấy từ cảm động, ông gọi đó là sự nghiệp “thảm đạm kinh dinh” của tổ tiên ta… Và rồi từ đồng bằng sông Hồng, sông Mã ngày càng trở nên chật chội, người Việt đã mở đường đi về Nam – cũng là Đào Duy Anh nói: “để mở rộng hy vọng cho tương lai” – trên con đường vạn dặm ấy họ đã gặp và phải tiếp tục chinh phục không chỉ những vùng đất mới nào, mà cả những chất đất mới chưa hề quen, vượt qua được sức kháng cự của chúng để làm ra cái ăn, cái mặc…, những cái đầu tiên giản dị và thô sơ vậy đó mà lại là cơ bản và quyết định để xây dựng giang sơn ra sao?… Hóa ra toàn bộ lịch sử cụ thể nhất và chân thật nhất đó, cái đáy thật sự của lịch sử, cái nền để làm nên mọi thứ lịch sử hào nhoáng khác của người Việt đó, lại có thể đọc được, và đọc được một cách đáng tin cậy nhất chẳng hạn qua những… chiếc cày, qua cách cấu tạo và thay đổi theo thời gian dằng dặc hình dáng, cấu tạo, cả chất liệu tạo thành của những chiếc cày và từng bộ phận của chiếc cày, từ cái cán cày, cái điệp cày, cái lưỡi cày, cái dây buộc và cái ách tròng vào vai cổ con trâu…, những thay đổi thoạt nhìn chẳng có gì ghê gớm, to tát lắm, nhưng lại ghi dấu sâu hơn và thật hơn mọi sách vở uyên bác. Dấu vết của những chất đất người Việt từng phải gặp và khuất phục trên suốt cuộc trường chinh vạn dặm qua hàng nghìn năm được in rõ, rõ nhất, rõ hơn bất cứ ở đâu khác, bằng bất cứ cách gì khác, trên cái công cụ tưởng chừng vô tri ấy. Vậy đó, cái cày không hề vô tri, nó cũng không câm. Nó có ngôn ngữ, bản thân nó là một ngôn ngữ, thậm chí ngôn ngữ chính xác và đáng tin cậy nhất. Vì trằn trọc nhất và lại vô tư nhất, mặc các triều đại, mặc các hệ tư tưởng, các vua chúa và các vị anh hùng. Bởi vì bất cứ ai thuộc về triều đại hay hệ tư tưởng nào, bất cứ vua chúa hay anh hùng nào rồi cũng phải ăn cơm do cái cày được biến đổi tài tình ấy để cày xới loại đất đặc biệt ấy làm ra. Hơn thế nữa, chính những triều đại và những hệ tư tưởng ấy nói cho cùng cũng từng biến đổi, thịnh suy do chính sự thay đổi ở cái cán, cái điệp, cái lưỡi cày ấy… Phan Cẩm Thượng cho ta thấy điều đó, cho ta nghe ngôn ngữ đó, cụ thể, sinh động. Cái cày của người Việt. Cả cái thuổng, cái cuốc, cái bừa, cái rìu, cái rựa, con dao, cái rổ, cái rá…, cho đến cái bát ăn cơm, cái gáo múc nước, cái chum muối dưa, cái nồi, cái chảo, cái ông đầu rau, cái kiềng đặt nồi trên bếp… Chúng đều nói, và không chỉ nói về đất đai của con người; còn về trời đất của con người và của xứ Việt, về gió bấc và gió nam, mưa phùn mùa xuân, mưa giông mùa hạ, mưa ngâu mùa thu và mưa dầm mùa đông, lụt hiền lành và lũ hung dữ, về những con sông và những núi non, về các cồn cát chan chan dằng dặc ven biển và những cánh đồng phì nhiêu nuôi nấng hay khô cằn khắc nghiệt thách thức con người…, về tất cả những gì con người Việt phải ứng phó, thích nghi, gìn giữ hay biến đổi kiên trì có thể qua hàng nghìn năm miệt mài, thông minh và dũng cảm để mà trường tồn… Và cuối cùng, qua tất cả những cái đó, tất cả những công cụ con người phải sáng tạo ra và cái cách sáng tạo ra chúng, biến đổi chúng, hiện lên lồ lộ chân dung của chính con người ấy, con người Việt trải suốt lịch sử tồn tại của mình. Khuôn mặt dãi dầu của người Việt. Và nữa, tâm hồn họ, tâm tính của họ, thất bại và thành công của họ, đau khổ và hạnh phúc, nỗi buồn và niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng của họ, ước mơ và chịu đựng của họ…, cái nền làm nên điều ta vẫn gọi là nền văn minh tinh thần của họ, sáng tạo văn học và nghệ thuật của họ; cả nữa đời sống tâm linh của họ, tôn giáo, tín ngưỡng và cả mê tín của họ, các vị thánh, các vị thần cùng ma quỷ của họ…
Cả một thế giới Việt, có thể không thiếu bất cứ phương diện nào, và lại suốt trường kỳ lịch sử. Tất nhiên là một lịch sử chậm chạp, chậm chạp lắm đến mức không thật chăm chú thì sẽ bỏ qua mất, song có lẽ chính vì thế mà nó càng đáng tin, nó được “viết ra”, khác mọi thứ lịch sử khác, không bị, hay được, thúc đẩy bởi bất cứ động cơ nào khác ngoài nhu cầu tồn tại, và phát triển tự nhiên, thiết yếu, không thể cưỡng lại của con người trên đất đai này và giữa thiên nhiên riêng biệt này.
Cuốn sách quý này Phan Cẩm Thượng tặng cho chúng ta không chỉ có thế. Còn đáng khâm phục vô cùng sự chăm chút, nâng niu, tận tụy, và cả uyên bác nữa trong công phu của anh để có thể cung cấp cho người đọc số lượng hình ảnh đồ sộ với 959 ảnh, 505 hình minh họa thật sự đặc sắc do anh say mê và kỳ công sưu tầm, hoặc tự anh nghiên cứu hẳn cũng phải rất chăm chú và với rất nhiều quý trọng cùng tình yêu để vẽ lại. Thậm chí có thể nói chỉ cần in riêng một cuốn sách gồm toàn những hình minh họa ấy thôi cũng đã thành một bộ sử độc đáo về “văn minh vật chất” của người Việt rồi.
Vậy mà vẫn còn chưa hết. Cuối sách còn có hai “công trình” đặc sắc: Một niên biểu tỉ mỉ và có thể gần như hoàn chỉnh về văn minh vật chất của người Việt từ 300.000 năm về trước, khi tổ tiên xa xôi của chúng ta sáng tạo ra những công cụ đá thô sơ ở Núi Đọ… cho đến tận năm 1930 khi người họa sĩ tài hoa Cát Tường sáng tạo ra chiếc áo dài đã trở thành một trong những biểu tượng của vẻ đẹp Việt Nam ngày nay… Theo tôi, trước Phan Cẩm Thượng chưa ai lập được bộ niên biểu cần thiết và nhiều ý nghĩa như thế này. Cũng là một bộ sử quý vậy.
Và còn một bản góp ý cho công trình của Phan Cẩm Thượng do họa sĩ Phan Bảo viết, dài đến mấy chục trang, chi tiết, kỹ lưỡng, hết sức giàu hiểu biết, sâu sắc, tận tình, nhiều tính phản biện, mà Phan Cẩm Thượng đã giữ nguyên, đăng trọn. Tôi nghĩ cả hai người đều thật hay, người góp ý và người đã đăng trọn, không cắt một dòng nào. Thêm một lần nữa tôi muốn nói lại ý đã nói tử đầu bài viết này: quả thật trong giới nghệ thuật nói chung, các họa sĩ là những người thật sự “có văn hóa”, đáng nể, theo nghĩa thật nhất, đúng nhất của khái niệm văn hóa.
Tôi có được xem một số tranh của Phan Cẩm Thượng, và dù chẳng hiểu gì mấy về hội họa tôi cũng có thể nhận ra màu chủ đạo trong tất cả các tác phẩm của anh là màu nâu sồng của đất. Nó đem lại một cảm giác đậm đà sâu lắng đặc biệt chỉ có đất đai của con người mới tạo nên được. Tôi cũng muốn nói thêm điều này: hình như trong các nghệ sĩ thuộc các ngành văn học và nghệ thuật ở ta chính các họa sĩ, dù họ thường rất hiện đại, đi đầu trong hiện đại, lại cũng thường Việt hơn cả. Họ gần với Đất và với Việt hơn chúng ta. Và theo tôi Phan Cẩm Thượng là một trong những người đứng ở hàng đầu trong số đó. Cũng là người luôn có những suy ngẫm trăn trở về một mối quan hệ trông chừng rất lạ giữa đồ vật do con người làm ra, ích dụng, sự cần thiết có ý nghĩa sinh tử của chúng cho sinh tồn của con người trên thế gian…, và lạ lùng thay, với cái nguy cơ chúng có thể trở lại thống trị và làm băng hoại con người, khi con người trở lại thành nô lệ của những đồ vật do chính mình làm ra.
Hãy đọc những dòng cuối sách này của anh:
“Khi tôi viết những trang cuối cùng của cuốn sách này cũng là lúc người Việt đang sôi lên vì kiếm tiền, kiếm việc làm và mua sắm bất tận. Hàng ngày tôi ngồi ở một quán nước trà ngoài đường và nhìn những dòng xe lúc chạy rầm rầm đến chóng cả mặt, lúc chen chúc nhau đến mức người và xe lèn đầy đường không thể đi được nửa trong hàng tiếng đồng hồ. Tôi tự hỏi vì sao người ta ra đến nông nỗi này, vì sao vật chất mà ta sử dụng không còn có ý nghĩa văn minh nữa mà chỉ là một đồ vật hữu dụng thuần túy. Xưa kia người theo học thuyết Lão Trang thì cho rằng cơ giới sẽ sinh ra cơ tâm, càng nhiều phương tiện con người càng xa với cái bản thể của mình. Những người theo Phật Thích Ca thì mặc áo nột tử trên người chỉ có mỗi cái bát khất thực. Nhưng ngay cả tôn giáo ngày nay cũng thay đổi, các nhà tu hành cũng đi ô tô, dùng vi tính và ăn mặc rất sang trọng, thì chúng sinh tại sao lại phải khổ hạnh. Cái lý tưởng xã hội thời Nghiêu Thuấn, đi ngủ không nhà nào đóng cửa, ra đường không ai nhặt của rơi có lẽ đã quá xa vời như quá khứ của con người vậy”.
Một lời than thở, hay một cảnh báo?
Hãy cầm cuốn sách này lên, và cùng suy nghĩ.
Thu 2010
Nguyên Ngọc
nguon-http://www.sachhay.org/sach/ChiTietSach/5952/van-minh-vat-chat-cua-nguoi-viet?BookShelfID=8