1. Mở đầu
Con người có hai đời sống: đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Trong đời sống tinh thần, đời sống thẩm mỹ dường như bao trùm lên các yếu tố còn lại. Con người luôn có nhu cầu thưởng thức cũng như sáng tạo cái đẹp. Quy luật thẩm mỹ chi phối mọi suy nghĩ cũng như hành động của mỗi người. Nó chính là yếu tố cơ bản nhất để loài người tạo dựng một cuộc sống hạnh phúc. Trong các hình thái ý thức của con người, văn học nghệ thuật là một hình thức tinh thần lấy tính thẩm mỹ làm trung tâm. Tính thẩm mỹ làm nên bản chất của nghệ thuật. Nhờ tính thẩm mỹ này mà người ta dùng văn chương để vui chơi giải trí. Người bình dân sáng tác ca dao là để hát lên trong lúc lao động cho quên đi mệt nhọc chứ không phải là để nhận thức hay giáo dục đạo đức. Homeros (Hy Lạp) là một nghệ sĩ hát rong vĩ đại, ông mải miết trên những nẻo đường thiên lý để đem niềm vui cho người đời. Khi có văn học thành văn, người ta lại dùng văn chương để thù tạc cùng nhau bên chén trà hay tách rượu lúc trăng thanh gió mát để quên đi những mệt nhọc của cuộc sống thường nhật. Bởi vậy, ngay từ thời trung đại, ông cha ta đã đề cao chức năng thẩm mỹ của văn chương, xem nó như là tiêu chuẩn rất quan trọng của sáng tạo nghệ thuật.
Trong đời sống lý luận phê bình văn học hiện đại Việt Nam, nghiên cứu về quan niệm văn chương trung đại một cách đầy đủ và có hệ thống chỉ thực sự bắt đầu từ thập niên 80 của thế kỷ XX. Công trình nổi bật như Từ trong di sản của Nguyễn Minh Tân (1981); Quan niệm văn chương cổ Việt Nam (1985) và Xác lập hệ thống quan niệm văn học (2002) của Phương Lựu; Người xưa bàn về văn chương (1993) của Đỗ Văn Hỷ; 10 thể kỷ bàn luận về văn chương (tập 1) của nhóm tác giả Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Vũ Thanh, Trần Nho Thìn (2007); Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam (2001) của Lê Giang; Lịch sử lý luận phê bình văn học Việt Nam do Trịnh Bá Đĩnh chủ biên (2016), v.v.. Những công trình này chủ yếu sưu tầm các ý kiến của văn nhân thời trung đại có thể hiện quan niệm về văn chương nói chung và quan niệm về chức năng thẩm mỹ nói riêng. Điểm chung là các tác giả chỉ tập hợp các phát biểu chứ chưa sắp xếp thành hệ thống và chưa phân tích, biện giải để làm sáng tỏ ý nghĩa của nó. Từ cở sở đó, tôi sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp văn hóa học và thao tác phân tích – tổng hợp nhằm làm tường minh vấn đề thẩm mỹ theo quan niệm của các văn nhân trung đại.
2. Văn chương và sự phản ánh cái đẹp
Nhà phê bình văn học Nga Bêlinxki nói: “Cái đẹp là điều kiện không thể thiếu của nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì không có và không thể có của nghệ thuật. Đó là một định lý” (Phương Lựu và cộng sự 1997: 177). Lý luận hiện đại phương Tây cho rằng cái đẹp là bản chất của nghệ thuật, trong khi thời trung đại ở phương Đông, do chịu ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo, nên đạo đức được xem là người mẹ của văn chương. Thiết nghĩ, trước khi nghĩ đến việc chở đạo, người ta sáng tác văn học nghệ thuật trước tiên là để chơi. Cái chơi ấy là những “trò chơi” của đời sống tinh thần, và đương nhiên điều kiện hàng đầu là nó phải có tính thẩm mỹ cao. Người bình dân tìm niềm vui bằng văn học dân gian, tao nhân mặc khách tìm niềm thú bằng văn học viết. Nói về tính thẩm mỹ của văn học trung đại, Giáo sư Lê Đình Kỵ nhận định: “Đánh giá cao văn học, cha ông ta cũng đã có ý thức cái điều là văn học phải là văn học, không chỉ có việc viết ra và in thành sách, mà phải hay, phải đẹp, phải tạo thành giá trị văn học. Về cái hay cái dở của sáng tác, ông cha ta đã có những ý kiến xác đáng, súc tích, ngắn gọn mà phong phú, tinh tế, gợi nghĩ, gợi cảm rất nhiều” (Phương Lựu 2002: 25). Thật vậy, ngoài chức năng chở đạo, văn học trung đại Việt Nam luôn ghi nhận và đề cao chức thẩm mỹ. Sự đề cao này thông qua rất nhiều ý kiến được thể hiện rải rác trong các lời tựa, lời bạt cho các tập thơ văn; thông qua lời trao đổi trực tiếp hoặc thư từ giữa các văn nhân, v.v.. Tập hợp lại, ta thấy giá trị thẩm mỹ là cái đích hướng tới của nhà văn.
Để có một tác phẩm sâu sắc về ý nghĩa và giàu phẩm chất thẩm mỹ, về nguyên lý sáng tạo thì Ngô Thì Nhậm trong lời tựa tập thơ Tinh xà kỷ hành đã chỉ ra: “Người làm văn quý ở mực thước, thanh nhã, hồn nhiên; biết nắm lấy cái thực làm cốt tử, rồi dùng cái đẹp trang sức thêm” (Phan Trọng Thưởng và cộng sự 2007: 142). Theo ông, sáng tạo một tác phẩm hay phải có hai yếu tố: yếu tố cốt lõi là cái thực, tức là những vấn đề mà tác giả muốn phản ánh; và yếu tố trang sức cho nội dung, tức vấn đề thể loại, ngôn ngữ, vần điệu, v.v.. Như vậy, cái thực đi trước cái đẹp, nhưng không có nghĩa cái đẹp chỉ “đi theo” cái thực mà nó phải cùng song hành. Ấy là một tác phẩm ưu tú. Khi một tác phẩm đã đạt được sự tinh túy của ngôn từ thì “ánh sáng” của nó sẽ tỏa ra lung linh, đầy sắc màu. Nói về điều đó, Nguyễn Tử Thành trong Chu trung vãn thiếu như thấy:
Thập thúy thu hồng quy bút để (Đầu ngọn bút thu được màu hồng, sắc biếc) (Phương Lựu 1985: 76).
Có thể ví tác phẩm văn chương hay như một viên pha lê phát ra ánh sáng với nhiều sắc màu đẹp. Sắc màu ấy chính là vẻ đẹp của ngôn từ với những thủ pháp biến ảo làm cho nó lung linh ý nghĩa. Sắc đẹp ấy chính là nội dung tư tưởng sâu sắc, giàu ý nghĩa giáo dục và thẩm mỹ, đem đến cho người đọc nguồn cảm xúc dồi dào, giúp họ thanh lọc tâm hồn. Không chỉ là ánh sáng, tác phẩm hay cũng tỏa ra “hương thơm”. Nguyễn Phi Khanh trong Bồi Băng hồ tướng công du xuân giang cũng nói:
Giai cú chỉ lan hương. (Câu thơ hay có hương thơm như hoa chỉ hoa lan) (Phương Lựu 1985: 76).
Câu thơ tỏa ra hương thơm, cách nói này có vẻ lạ, nhưng có một thực tế mà lý luận hiện đại gọi là “tính vạn năng” của văn chương. Do văn học lấy ngôn từ làm chất liệu, mà ngôn từ có thể diễn tả bất cứ phương diện nào của đời sống, từ cái trực quan đến cái trừu tượng, nên văn học có tính vạn năng trong phản ánh. Và trong các loại hình nghệ thuật, chỉ duy nhất có văn học mới diễn tả được màu sắc ảo:
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
và mùi hương:
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
(Hoài Thanh và cộng sự 1999: 102).
Trở lại với câu thơ của Nguyễn Phi Khanh, mùi hương của hoa chỉ hoa lan tỏa ra từ một câu thơ, thì đương nhiên câu thơ ấy phải rất đặc sắc. Nhà thơ phải cố gắng tạo tác những sản phẩm đặc sắc như thế. Và khi tác phẩm đặc sắc thì nó còn đem lại sự bất tử cho tự nhiên. Trong bài Hán Dương vãn diểu (Chiều ngắm cảnh Hán Dương), Nguyễn Du có viết: “Thi thành thảo thụ giai thiên cổ” (Bài thơ làm xong thì cây cỏ trở nên muôn đời) (Phương Lựu 1985: 33). Thực tế là cỏ cây hay con người, con vật đều có sinh ra và mất đi, đó là quy luật của thời gian. Về ngôn ngữ thì nó có sinh ra nhưng không già cỗi và mất đi, trừ khi dân tộc dùng ngôn ngữ ấy bị tiêu vong (chỉ có một số từ thành từ cổ do đối tượng biểu thị của nó không còn nữa). Chất liệu của văn học là ngôn ngữ. Khi ngôn ngữ ấy được sử dụng một cách có hiệu quả thẩm mỹ cao trong việc phản ánh và biểu hiện đời sống, thì nội dung của sự biểu hiện ấy sẽ có giá trị vĩnh viễn, nó được lưu truyền vượt không gian và thời gian.
Một tác phẩm hay không chỉ bất tử hóa đời sống, nó còn phải phản ánh phong phú hiện thực đời sống, đem đến cho người đọc những hiểu biết đa dạng. Muốn vậy ngòi bút của văn nhân phải có nguồn năng lượng dồi dào. Trần Thái Tông trong bài Hạnh An bang phủ đã thấy: “Vạn tượng sinh hào đoan” (Muôn nghìn hình ảnh nảy sinh dưới đầu ngọn bút) (Phương Lựu 1985: 76). Một ngọn bút thôi nhưng tuôn ra đến “muôn nghìn hình ảnh”. Ở đây có hai cách hiểu, một là, một đời văn tạo tác rất nhiều hình tượng nghệ thuật; hai là, một tác phẩm đem đến nguồn mỹ cảm dồi dào. Và một tác phẩm ưu tú là một sinh thể nghệ thuật giàu năng lượng về phản ánh lẫn tác động. Nếu Trần Thái Tông nói về việc “tạo ra”, thì Trần Nhân Tông lại nhấn mạnh việc “thu vào” của tác phẩm. Trong bài Đại giác thần quang tự, Trần Nhân Tông thấy được cái kỳ vĩ của thi, họa:
Thập nhị lâu đài khai họa trục
Tam thiên thế giới nhập thi màu.
(Cuốn tranh vẽ mở ra mười hai tòa
Con mắt thơ thu về ba ngàn thế giới)
(Phương Lựu 1985: 76)
Con mắt thơ thu về ba ngàn thế giới nghĩa là gì? Vẫn dùng cách nói thậm xưng, Trần Nhân Tông nhấn mạnh đến khả năng phản ánh của văn chương. Một tác phẩm hay phải phản ánh thật phong phú đời sống, từ thế giới tự nhiên đến thế giới tâm hồn con người. Điều này, nhà thơ Vương Quốc Duy đời Thanh bên Trung Quốc cũng có bàn đến: “Có tạo cảnh, có tả cảnh. Đó là lý do chia ra hai phái lý tưởng và tả thực. Tuy vậy, hai phái đó cũng khó mà phân biệt được một cách rạch ròi. Bởi vì nhà thơ lớn khi tạo cảnh đều phù hợp với tự nhiên, khi tả cảnh cũng gần gũi với lý tưởng vậy” (Khâu Chấn Thanh 2001: 81). Sự kết hợp giữa tạo và tả khiến văn học có khả năng phản ánh và biểu hiện vô cùng phong phú đời sống tự nhiên, đời sống xã hội, và phẩm chất con người. Nếu văn học hiện đại có xu hướng đi vào đời sống tâm lý, tâm linh, vô thức của con người; thì văn học trung đại ưu tiên trong vấn đề phản ánh, tái hiện thiên nhiên. Cho nên, thế giới mà Trần Nhân Tông nói ở đây chủ yếu là thế giới tự nhiên. Nhưng dù sao ông cũng nhấn mạnh đến phẩm chất của tác phẩm hay là nó phản ánh phong phú đời sống. Khi một tác phẩm văn chương hay, độc đáo thì nó đem đến những ảo giác kỳ diệu nhưng có thật của cảm xúc. Nguyễn Trãi trong Chu trung ngẫu thành cũng cảm nhận một cách tinh tế cái kỳ diệu của lời ca tiếng sáo:
Ngư ca tam xướng yên hồ khoát
Mục địch nhất thanh thiên nguyệt cao.
(Ngư ông hát lên ba lần thì mặt hồ khói phủ như rộng thêm ra
Mục đồng thổi lên một tiếng sáo thì vầng trăng như vươn thêm lên trời cao) (Phương Lựu 1985: 76).
Một bài thơ hay, một bản nhạc hay thường đem lại những những cảm xúc kỳ diệu mà khó có một loại hình nghệ thuật nào có thể làm được. Đọc câu thơ của Nguyễn Du ta thấy tâm hồn mình phiêu diêu:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng (Nguyễn Du 1997: 202).
Ta như có cảm giác bay trong chốn Bồng Lai tiên cảnh không biết đâu là đường chân trời với mênh mông nước trời sương khói. Đó là sức mạnh kỳ diệu của ngôn từ trong một chỉnh thể nghệ thuật giàu phẩm chất thẩm mỹ. Đó là về những cảm xúc ảo giác đẹp đẽ của thơ nhạc đem lại. Chỉ có những tác phẩm văn chương hay mới có thể chuyển tải được những điều kỳ diệu, lớn lao, đẹp đẽ để tác động tích cực đến người đọc. Bởi vậy, Nguyễn Đình Chiểu không chỉ bất tử hóa mà còn thiêng liêng hóa văn chương. Trong Ngư tiều y thuật vấn đáp, ông viết:
Nói ra, vàng đá chẳng sao
Văn ra: dấy phụng, rời giao tưng bừng.
(Phương Lựu 2002: 169)
Mở đầu tác phẩm Lục Vân Tiên, ông cũng viết: Văn đà khởi phụng đằng giao (Phương Lựu 2002: 169).
Một câu thơ, câu văn được viết ra, được đọc lên đẹp như con chim phụng trỗi dậy, như con rồng bay cao. Phụng, rồng là hai con vật vừa đẹp đẽ, vừa linh thiêng, chiếm một vị trí trang trọng trong tâm linh người phương Đông. Một tác phẩm văn chương hay phải để lại “rồng, phượng” trong tâm hồn con người. Trong Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn phát biểu: “Văn chương tập tục chuyển biến luôn luôn, từ chất phác tiến lên văn vẻ, từ mộc mạc mà tiến lên hoa mỹ” (Nguyễn Minh Tân 1981: 95). Tác giả nào cũng vậy, không thể tác phẩm đầu tay đã hoàn mỹ, mà phải đi dần từ thô mộc ban đầu đến đẹp đẽ về sau. Vậy, tính thẩm mỹ là cái mà mọi nhà văn phải phấn đấu để hướng đến. Có như thế mới tạo nên những tác phẩm có tính nghệ thuật cao. Từ thơ văn đời Lý – Trần đến thơ văn đời Nguyễn, chúng ta ghi nhận không biết bao nhiêu tác phẩm đặc sắc về vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp phẩm chất con người, vẻ đẹp về sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Điều này xuất phát từ quan niệm văn chương phải đẹp để đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của người thưởng lãm. Ý kiến đáng chú ý nhất là câu nói của Hoàng Đức Lương: “Đối với thơ, người xưa hoặc ví như gỏi nem, hoặc ví như gấm thêu. Gỏi nem là vị ngon nhất trên đời, gấm thêu là sắc đẹp nhất trên đời, hễ ai có mắt, có miệng đều biết quý trọng, không dám khinh thường. Đến như thơ, thì lại sắc ở ngoài mọi sắc, mắt thường không thể nhìn được; vị ở ngoài vị, miệng thường không thể nếm được” (Phan Trọng Thưởng và cộng sự 2007: 30). Để dễ hình dung, tác giả so sánh thơ với gỏi nem và gấm thêu. Một cái là thức ăn ngon nhất (trong khẩu vị của người thời bấy giờ), một cái là sắc đẹp nhất (trong các loại vải mặc thời bấy giờ). Đó là một cấp độ đề cao. Chưa dừng lại, tác giả còn nâng lên một cấp nữa. Đó là thơ thì sắc ngoài mọi sắc, vị ở ngoài vị, giác quan thông thường thưởng thức được. Nói như thế, chứng tỏ Hoàng Đức Lương yêu văn thơ và đề cao nó như là những gì đẹp đẽ, hấp dẫn nhất trên đời. Điều này cũng dễ hiểu khi thời ấy chỉ có văn thơ là sản phẩm tinh thần quan trọng nhất. Cao hơn nữa, ông đã khẳng định tính hàn lâm của tiếp nhận văn chương khi ông cho là cần phải có năng lực tri thức, năng lực thẩm mỹ cao thì mới thưởng thức được. Tính cao cấp của hoạt động văn chương, sự không đơn giản của của việc thưởng thức văn chương được Ngô Thì Nhậm ví như việc chơi hoa Lan Châu, uống chè Long Tỉnh, nghe nhạc cung đình. Trong Bàn về thơ, ông viết: “Ta thường nghĩ, người thường có bốn điều không thể biết: chơi hoa Châu Lan không biết thơm. Uống chè Long Tỉnh không biết ngon. Nghe khúc điệu cung đình không biết vui. Đọc thơ Cầm Sắt (thơ của Lý Thương Ẩn đời Đường) không biết hay. Bởi vì bốn cái ấy thanh cao quá, không thích hợp với người thường vậy” (Phan Trọng Thưởng và cộng sự 2007: 149). Dân gian thường nói “nghề chơi cũng lắm công phu”, nhưng công phu nhất có lẽ là thưởng thức văn thơ, vì nó là ngôn ngữ được “chưng cất mạnh mẽ nhất”. Vấn đề này cũng được Tư Không Đồ – một nhà thơ đời Vãn Đường bên Trung Quốc phát biểu tương tự: “Đới Dung Châu nói: “Cảnh của nhà thơ tuyệt vời như cảnh mặt trời Lam Điền chiếu soi ấm áp, như ngọc tốt nhả khói mơ màng, có thể nhìn thấy nhưng không thể đặt ngay trước mắt được”. Tượng ở ngoài tượng, cảnh ở ngoài cảnh, lẽ đâu mà dễ dàng bàn được sao?” (Khâu Chấn Thanh 2001: 209). Ở quan niệm trên, và nhiều ý kiến khác nữa, ta thấy có sự gặp gỡ của hai nền lý luận văn học Việt Nam và Trung Quốc.
Quả đúng như vậy, chúng ta từng nghe người xưa rất trịnh trọng, chuẩn bị kỹ lưỡng không gian thưởng thức thơ, để có thể cảm nhận những vẻ đẹp tinh túy của văn chương. Hãy đọc lời đề tựa Quỳnh uyển cửu ca của Lê Thánh Tông để thấy được tính thiêng liêng của sự thưởng thức tác phẩm nghệ thuật ngôn từ: “Ta nhân lúc muôn việc được rỗi, nửa ngày được nhàn, thường xem các sách, vui thích lục nghệ, mọi sự huyên náo lắng xuống, một ngọn đèn thơm tho, thị dục ít, tinh thần trong sáng, ở yên hứng cao, mới phấn khởi nghĩ đến khuôn phép lớn của thánh đế minh vương, lòng cẩn thận của trung thần lương bật. Gọi chàng giấy, họ bút, thượng khách mực, trọng thần nghiên đá, bảo đi bảo lại rằng: Chân tình ta phát ra, có anh khí dào dạt, thành cách ngôn hay” (Phương Lựu 1985: 75). Cách diễn đạt từng ý, từng ý một về các công đoạn của sinh hoạt văn chương mới thấy được tính thiêng liêng của nó. Khi đọc sách thì “mọi sự huyên náo lắng xuống, một ngọn đèn thơm tho, thị dục ít, tinh thần trong sáng, ở yên hứng cao”. Đúng vậy, thưởng thức văn chương, ngoài yêu cầu bắt buộc phải có tri thức, còn đòi hỏi tâm hồn ta phải trong sáng vô ngần thì chức năng thẩm mỹ của nó mới lan tỏa được. Vì đến với thế giới nghệ thuật là ta phải quên đi thế giới thực tại. Chỉ khi tâm hồn ta trống không, vô ưu vô lo, ta mới được sống trọn vẹn với hình tượng nghệ thuật. Khi ấy nó mới thực hiện được chức năng “thanh lọc tâm hồn”. Và đến khi sáng tác cũng phải tỉ mẩn, chỉn chu; quan trọng nhất là chân tình mới có thể tạo ra những sản phẩm giàu tính thẩm mỹ, đem lại nguồn mỹ cảm dồi dào cho người đọc.
Xuất phát từ chức năng thẩm mỹ cao cả của văn chương nên ở trên Hoàng Đức Lương xem văn chương là gỏi nem, là gấm thêu. Cũng ví văn chương đẹp như lụa là, gấm vóc, trong lời tựa tập thơ Tinh xà kỷ hành của Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm có viết: “Thơ, phú, ca, hành, biện luận, ký, chí, tựa, bạt, giải thích, biền ngẫu, tản văn, chất chứa trong lòng, phát ra lời đẹp như gấm vóc làm đẹp mắt, như vải lụa làm thích thân, đó gọi chung là nhà văn. Trong các thể loại đó, cái có thể làm phấn chấn lòng người, cảm phát tình người, thì không gì lớn hơn thơ. Cho nên đối với những người làm thơ thì chuyên gọi là “nhà” (Phan Trọng Thưởng và cộng sự 2007: 141). Thơ làm phấn chấn lòng tức là nó đem đến nguồn cảm hứng tích cực, tạo ra nguồn năng lượng tích cực để đem đến sức sống làm cơ sở cho hành động. Thơ cũng giúp cảm phát tình người để người với người có thể xích lại gần nhau hơn. Thơ văn giúp con người xích lại gần nhau, đây cũng có thể hiểu là chức năng giao tiếp của văn chương. Từ xa xưa, ông cha ta đã thấy hạt nhân thẩm mỹ của một tác phẩm văn chương. Bản thân khái niệm “nghệ thuật” đã bao hàm nghĩa tinh xảo, khéo léo, đẹp đẽ. Thơ trước hết phải đẹp: đẹp trong cảm hứng, cảm xúc, đẹp trong ý tứ, ngôn từ, và đẹp trong tâm thế thưởng thức. Ý kiến này cũng phản ánh đời sống văn hóa tinh thần của con người thời trung đại khi chỉ có văn thơ là hình thức giải trí quan trọng nhất.
Ngô Thì Nhậm viết tiếp trong Tinh xà kỷ hành: “Có khả năng gây hứng thú và cảm xúc cho người thì không gì bằng thơ”. Dù câu nói này có tính cá nhân và tính thời đại, nhưng nó cũng nói lên được tình yêu văn chương của ông cha ta, xa hơn là của dân tộc. Dân tộc ta là một dân tộc yêu thơ. Dòng họ Ngô là một dòng họ hình thành nên một “văn phái” nổi tiếng, thì tình yêu ấy mãnh liệt nhường nào. Chuyện kể rằng, năm 1732, Ngô Thì Ức thi Hương đỗ Á nguyên, nhưng năm sau thi Hội không đỗ, ông dời ngôi nhà ở phường Cổ Vũ trong kinh thành Thăng Long về làng sống ẩn dật. Trong ngôi nhà của mình, ông xếp đá làm núi, xây bể cạn, trồng hoa mẫu đơn, vẽ tranh xử sĩ, đề thơ tỏ ý. Mỗi khi hoa nở, mỗi tuần trăng sáng, ông thường họp mặt bè bạn thắp hương, chia vần làm thơ và không nói chuyện thời thế. Đó là cuộc sống văn chương mà dòng họ Ngô Thì đã tiếp nối nhau. Và đó cũng là sinh hoạt văn chương thường thấy của các nhà Nho thời trung đại.
Hứng thú mà văn chương là hứng thú thanh tao, cảm xúc mà văn thơ đem lại là cảm xúc thanh lọc để tâm hồn mình trở nên đẹp đẽ, phong phú hơn. Trên đời có nhiều thứ cũng đem lại hứng thú và cảm xúc cho con người, nhưng với phẩm chất thẩm mỹ – tinh thần của mình, thơ luôn đứng ở vị trí quan trọng nhất. Lê Quý Đôn trong Mấy lời về thể lệ sách Toàn Việt thi lục có viết: “Việc học của các bậc đế vương là nhằm làm sáng tỏ đạo lý và dựng nền trị bình, còn văn chương thì chẳng phải việc đáng để tâm theo đuổi. Song những lúc muôn việc tạm rỗi, thư thái ngâm vịnh, biểu lộ tình cảm hài hòa, thì sự tiêu khiển đó cũng hay hơn những thú vui khác” (Phan Trọng Thưởng và cộng sự 2007: 85). Câu nói này có thể tác giả nhấn mạnh đến chức năng giải trí, nhưng ý “biểu lộ tình cảm hài hòa” thì lại thiên về thẩm mỹ. Thật ra giải trí và thẩm mỹ nhiều khi khó tách bạch nhau. Có thẩm mỹ thì mới giải trí được, mà “giải trí” cũng là một phạm trù của thẩm mỹ. Nghĩa là tác phẩm nghệ thuật giàu giá trị thẩm mỹ thì người thưởng lãm mới giải trí được, nếu không nó chỉ đem lại sự bực bội, tiêu cực. Có lẽ vì vậy mà Ngô Thì Vị trong bài bạt Cấn Trai thi tập có nói: “Thơ cùng mà sau hay, nhưng hoang lạnh hắt hiu thê lương khích liệt thì không phải là giáo hóa của thơ” (Phan Trọng Thưởng và cộng sự 2007: 152). Ý “thơ cùng mà sau hay” có lẽ Ngô Thì Vị tham chiếu từ nhà thơ Âu Dương Tu đời Tống của Trung Quốc.
Trong Mai Thánh Du thi tập sự, Âu Dương Tu viết: “Phàm kẻ sĩ có gì chất chứa ở trong lòng không được thi thố ở đời thì đa phần thích phóng du nơi vách non đầu suối, mắt nhìn thấy đủ loại côn trùng cây cỏ, gió mây chim thú, tìm hiểu vẻ kỳ quái của chúng, trong bụng chứa chất những ưu tư phẫn kích, cảm hứng nảy ra ở chỗ ai oán châm chích, viết những lời than thở của kẻ ky thần quả phụ, nói lên những lời mà tình người khó nói. Do vậy càng khốn cũng thì lời càng hay. Như thế thì không phải thơ làm người ta khốn cùng, mà có khốn cùng thì sau đó mới có thơ hay vậy” (Khâu Chấn Thanh 200: 94). Đây là cách lý giải khá thú vị về tâm lý sáng tác. Người cùng (tận khổ) thường có giọng buồn, hắt hiu. Và Ngô Thì Vị cho rằng thơ mà hoang lạnh hắt hiu thê lương khích liệt thì không thể giáo hóa. Không giáo hóa thì cũng không thỏa mãn được nhu cầu thẩm mỹ, và không thể nói đến giá trị giải trí của nó. Có thể nói, văn chương là suối nguồn của các giá trị thẩm mỹ. Nếu dòng chảy của nó mang theo nhiều chất phù sa khác như đạo đức, hiện thực, tri thức, tư tưởng, v.v.; thì tất cả phải nương vào ngọn nguồn thẩm mỹ. Và nhờ thế, tác phẩm đem lại nguồn mỹ cảm dồi dào cho người đọc.
3. Văn chương và sự thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ
Đối tượng phản ánh của văn chương là toàn bộ thế giới hiện thực, hiện thực bên ngoài và bên trong tâm hồn nhà văn. Trong thế giới ấy, cái đẹp luôn là đối tượng ưu tiên hàng đầu cho sự phản ánh. Nói như thế không có nghĩa là văn học không phản ánh cái xấu. Tuy nhiên, nếu phản ánh cái xấu cũng chỉ để đặt nó trong thế đối lập nhằm tôn vinh cái đẹp. Bởi vậy, văn chương là thế giới của cái đẹp. Thế giới ấy sẽ giúp thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ và nâng cao năng lực thẩm mỹ cho con người.
Con người sáng tạo ra của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu vật chất, như cái ăn, cái mặc, cái ở, sự đi lại v.v.. Con người cũng sáng tạo ra văn học nghệ thuật để thỏa mãn nhu cầu tinh thần. Tại sao người ta hay nói “văn học nghệ thuật”, trong khi văn học là một bộ môn của nghệ thuật? Là bởi vì văn học là bộ môn có tính liên đới và bao trùm lên các bộ môn khác. Bởi vậy, văn chương là hình thức nghệ thuật đáp ứng tốt nhất nhu cầu tinh thần của con người. Tác phẩm văn chương hay, giàu tính thẩm mỹ sẽ là món ăn tinh thần vô cùng hấp dẫn, khiến người thưởng thức nó phải “thèm”, phải “nghiện”. Có lẽ vì vậy mà Ngô Thì Sĩ trong tựa Anh Ngôn thi tập có nói: “… Nhưng vì có bệnh nghiện riêng nên cho rằng nghiện thơ còn hơn nghiện cái khác, rốt cuộc đều là nghiện cả. Ai ưa tôi mà tô son điểm phấn cho, thì Tây Thi cũng không phải là người trên trời; nếu phân chia là người với ta mà tìm cách dèm chê thì có khác gì Đông Thi lại cười Đông Thi, khiến cho người làng đến ôm bụng mà chạy” (Phan Trọng Thưởng và cộng sự 2007: 138). Có nhiều thứ để người ta vui thú, tùy theo từng người mà họ chọn những niềm vui riêng của mình: có người chọn câu cá, có người chọn chơi chim, chơi cờ, uống rượu, v.v. và mỗi người thường “nghiện” một hoặc vài thứ là điều bình thường trong đời sống. Nhưng xưa nay, nói nghiện thơ có mấy ai. “Nghiện thơ” xuất phát từ tinh thần trọng văn trong đời sống văn hóa Trung Quốc và Việt Nam. Chính thơ đem lại những cảm hứng tinh thần mạnh mẽ, cuốn hút, hấp dẫn mà Hoàng Đức Lương ví như gỏi nem, gấm thêu, và hơn thế nữa. Có lẽ vì vậy mà trong truyền thống văn hóa Việt Nam, cốt cách của người quân tử gắn liền với phẩm chất thơ. Đã là vua quan thì phải biết làm thơ. “Bậc minh quân bao giờ cũng mang thêm tư cách của văn nhân” (Phương Lựu 1985: 129). Con người nói chung cũng vậy, biết làm thơ thì được người khác trọng vọng. Thậm chí được ngưỡng vọng, như câu nói của Phạm Nhữ Dực: “Thi hào hổ thị thiên lâm túc” (Nhà thơ lớn như con hổ nhìn hàng ngàn khu rừng im phăng phắc) (Phương Lựu 1985: 129). Xét trong đời sống lý luận phê bình văn học hiện đại, chưa thấy có ai đề cao nhà văn như thời trung đại. Điều này là do tính thời đại chăng?
Người khác trọng vọng, vì văn chương là sự bật ra của thiên lương, hay là nỗi lòng về việc nước. Không chỉ có chức năng cao cả ấy, văn chương còn là xúc cảnh ca ngâm, là để thù ứng. Trong Mấn hành thi thoại tập, Lý Văn Phức viết: “Vượt ba đào của biển lớn, trải phong vật của trung châu, khi một mình thì xúc cảnh ca ngâm, khi gặp mặt thì cùng người thù ứng. Hoặc là sự bật ra của thiên lương, hoặc là quan tâm về việc nước, cái nguồn của nó chỉ là duy nhất” (Nguyễn Minh Tân 1981: 130). Thấy cảnh sinh tình, khi đã sinh tình thì người ta có nhu cầu biểu đạt ra lời văn, lời thơ. Lời ấy trước tiên là để bộc lộ tâm trạng, sau đó là thưởng thức sự thăng hoa của tâm hồn. Và còn gì hơn là có người thù ứng, như câu chuyện Bá Nha – Tử Kỳ, Nguyễn Khuyến – Dương Khuê. Nói như Ngô Thì Nhậm: “… Khóe cười tươi, ánh mắt đẹp nhưng phong thái sáng láng, chung quy vẫn phải bắt nguồn từ cái nền trắng (nền trắng tô thêm ngũ sắc càng nổi – ý của Khổng Tử). Lời văn óng ả, câu văn mượt mà, song ở chỗ thần diệu là cốt ở tấm lòng mà thôi. Bởi vậy, nếu tâm hồn và tâm hồn gần nhau, thì tất có cơ sở để nương tựa” (Phan Trọng Thưởng và cộng sự 2007: 149). Nền trắng ấy chính là tâm hồn người sáng tác. Người thưởng thức cũng có cái nền ấy tất sẽ được tác hợp. Cái đẹp của văn chương chính là tạo ra tri kỷ, tâm giao của những tâm hồn đồng điệu, yêu văn chương nghệ thuật.
Nếu ở trên, Ngô Thì Sĩ nói “nghiện” thơ văn, thì Nguyễn Bỉnh Khiêm dùng từ “bệnh” chưa chữa khỏi. Trong bài tựa cho tập thơ Bạch Vân am thi tập, ông viết: “…Cái bệnh yêu thơ lâu ngày tích lại chưa chữa khỏi, mỗi khi được thư thả lại dậy hứng mà ngâm vịnh, hoặc ca tụng cảnh đẹp của sơn thủy, hoặc tô vẽ nét thanh tú của hoa trúc, hoặc tức cảnh mà ngụ ý, hoặc tức sự mà tự thuật, đều ghi lại thành thơ nói về chí” (Phan Trọng Thưởng và cộng sự 2007: 51). Hai cách nói nhưng thực ra chỉ là một, tức xem văn thơ là lẽ sống, mà nếu thiếu nó, họ sẽ không chịu nổi, nghiện thì khó cai, và bệnh mạn tính khó chữa khỏi. Một căn bệnh mà hầu như ai cũng muốn mắc phải, vì hiệu ứng tích cực của nó, vì những giá trị mà nó mang lại. Vì mắc nó mà người ta có thể ngâm vịnh, hòa mình vào cảnh đẹp núi sông, hay dùng chữ nghĩa để vẽ nét thanh tú của hoa trúc… Trong sự nghiệp thơ văn khá phong phú của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm có rất nhiều bài thơ vịnh cảnh như Cảnh nhàn, Thú điền viên, Nước non, Thú tiêu dao, Mùa thu chơi thuyền, v.v.. Không chỉ riêng ông, mà hầu hết văn nhân thời trung đại đều tập trung đề tài thiên nhiên, qua đó giãi bày tâm sự, nỗi lòng của mình. Điều đó cho thấy quan niệm đề cao chức năng thẩm mỹ – giải trí là quan niệm có tính phổ quát, rất tiến bộ của ông cha ta.
Tại sao lại nói tiến bộ? Xét về đời sống lý luận văn học hiện đại, trong một thời gian rất dài, từ những năm 60 của thế kỷ XX đến tận năm 2000, lý luận văn học mác xít vẫn xác định chức năng quan trọng hàng đầu của văn học là chức năng nhận thức. Chức năng thẩm mỹ đứng ở vị trí thứ ba, sau chức năng giáo dục. Nhưng từ năm 2000 trở đi, các giáo trình Lý luận văn học đã đưa chức năng thẩm mỹ lên hàng đầu. Điều này là phù hợp vì nó đúng với bản chất của văn học. Nói như thế để thấy rằng, ngay từ thời trung đại, ông cha ta đề cao giá trị thẩm mỹ của văn chương. Có nhiều ý kiến thể hiện quan điểm này. Ví như trong Phi điểu nguyên âm, Nhữ Bá Sĩ viết: “Cái tư chất của bậc thượng trí, bên trong thì lớn lao, bên ngoài thì rực rỡ, chạm vào nơi nào thì tư văn nảy sinh ra nơi ấy: là hoa cỏ của hóa công, là khói sóng của biển lớn” (Nguyễn Minh Tân 1981: 154). Ở đây, ta chưa bàn đến cái tư chất của nhà văn (Nhữ Bá Sĩ gọi bậc thượng trí), mà chỉ nói đến sản phẩm của tư chất đó. Tác phẩm văn chương là hoa cỏ của hóa công, là khói sóng của biển lớn. Xét trên tính chất khái quát – điển hình của hình ảnh, thì hoa cỏ là sự tinh túy của tạo hóa. Nhà văn thay đấng hóa công để tạo ra những gì là đẹp nhất. Và ví tác phẩm như khói sóng của biển lớn. Mà khói sóng vừa là hình ảnh đẹp (nhất là khi tạo ra bảy sắc cầu vồng), vừa có tính chất huyền ảo, dễ đưa tâm hồn con người phiêu diêu trong cõi mờ xa. Chức năng thẩm mỹ của văn chương còn có khả năng đưa con người thoát tục để có thể đến chốn Bồng Lai tiên cảnh:
Trời cao xanh ngắt: ô kìa!
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai” (Hoài Thanh và cộng sự 1999: 58).
Cũng trên quan điểm văn chương là hiện thân của cái đẹp, trong lời tựa tập Tàng thuyết, Lê Hữu Kiều viết: “Cũng như trong mình sẵn nhạc Thiều, gặp đám liền tưng bừng tấu khúc; cũng như trong tay cầm hoa đẹp, đến đâu cũng gieo rắc cành xuân” (Nguyễn Minh Tân 1981: 52). Tưng bừng tấu khúc hay gieo rắc cành xuân đều có nghĩa là đem lại niềm hứng khởi, đem lại sức sống cho cuộc đời. Sứ mệnh của chiến tranh là gieo rắc cái chết, sứ mệnh của văn chương là ươm mầm cho sự sống; hơn thế nữa, là một cuộc sống bát ngát hương hoa. Văn chương có thể đem lại hạnh phúc cho con người bởi những giá trị tích cực của nó, nhất là giá trị thẩm mỹ. Bởi vì, nói như Hải Thượng Lãn Ông trong Y hải cầu nguyện: “Ngày xưa có chàng họ Vương theo học nghề vẽ, một lá thuyền lênh đênh giữa ngũ hồ, mắt nhìn no những cảnh tuyết phủ chiều hôm, mây mờ sáng sớm, và ánh sáng lọc qua màn khói lam lúc lòe lúc tắt” (Phương Lựu 1985: 154). Đây là nói về một bức tranh, nhưng thời trung đại, thơ, nhạc hay họa đều có tính chất “nghệ” như nhau. Dùng họa để nói thơ, dùng thơ để nói nhạc là điều thường thấy trong các phát biểu của văn nhân trung đại. Những hình ảnh mà một tác phẩm văn nghệ đem lại như chiếc thuyền, tuyết phủ, mây mờ, khói lam như chính trong thực tế. Do hạn chế về không gian, thời gian cũng như điều kiện sống, con người không thể đi để biết hết hiện thực, để thưởng lãm thắng cảnh trăm miền. Và thơ văn sẽ giúp khắc phục điều đó. Trong bài ký Dạo chơi chùa Linh Phong, có đoạn: “Thơ tả cảnh như lột được sắc của cảnh, tả người như phơi được thần của người, một ngang một dọc, vô cùng hứng chí. Tuy không được cùng du ngoạn cuộc này, nhưng qua mặt giấy cũng thấy được tình cảnh của núi sông, nét thanh u của cảnh sắc. Cho nên bảo phủ tôi như được dự cuộc vui này, cũng không sai vậy” (Phương Lựu 2002: 261). Không cùng bạn đi đến chùa Linh Phong ở Bình Định, nhưng đọc tập thơ xướng họa của bạn, tác giả như thấy mình có can dự vào cuộc du ngoạn. Thật vậy, chưa đến Côn Sơn, như đọc bài Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi, ta như được đắm mình giữa non nước Côn Sơn; chưa đến Hương Sơn nhưng khi đọc Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh, ta như được thả hồn vào chốn hữu tình và linh thiêng của Hương Sơn, v.v.. Và có điều chắc chắn là cái đẹp gợi lên từ ngôn từ sẽ lung linh hơn là cái đẹp thấy trước mắt, vì nó được nhìn qua trí tưởng tượng của con người. Sức mạnh, sự hấp dẫn của cái đẹp trong nghệ thuật chính là chỗ đó.
Vì văn chương có sức hấp dẫn to lớn như vậy, nên người xưa sống với văn chương bằng tất cả sự trân trọng và niềm yêu thương vô bờ bến. Tiêu biểu nhất là sinh hoạt của các văn nhân Ngô gia. Ngô Thì Sĩ trong tựa Nam Trình Liên vịnh tập cũng viết tương tự: “Mỗi khi thấy trăng vào nhà, mây trên sông lại nhớ đến nhau. Khi thì đi xe nhỏ đến thăm, khi thì thả thuyền con đến hỏi, khi nằm giường khách nghe mưa, khi dạo chùa cổ hóng gió. Ngoài việc xướng họa, không còn bận việc gì nữa, vui thú ở việc lựa vần, chọn chữ đã lâu rồi” (Phan Trọng Thưởng và cộng sự 2007: 138). Chính niềm vui thú này mà truyền thống dòng họ Ngô Thì luôn duy trì những “xa lông” văn học với những nội quy nghiêm ngặt mà tiêu biểu nhất là Hội Quan lan sào của Ngô Thì Sĩ. Hội có những quy ước về ngồi (tọa ước), uống (ẩm ước), nói (ngôn ước), chiếu (tịch ước), ăn (thực ước). Những quy ước đều nhằm bảo đảm cho cuộc vui thanh nhã trọn vẹn, “hết mình” mà không lệ thuộc vào vật chất. Sự khẳng định về tình yêu văn thơ thể hiện ở sự hết mình với tác phẩm về phương diện thưởng thức cũng như sáng tác (Trần Thị Băng Thanh 2006).
Để thưởng thức một tác phẩm, người đọc phải đồng cảm với tác giả. Để có được sự đồng cảm nơi người đọc, tác phẩm phải chứa đựng năng lượng thẩm mỹ dồi dào. Muốn có năng lượng ấy, người sáng tác phải xuất phát từ nguồn mỹ cảm “tột cùng”. Như lời bộc bạch của Nguyễn Hành trong Minh quyên thi tập: “Tiếng kêu não nùng của con cuốc, cuối cùng là lơ lửng treo trên cành cây mà thôi. Ta kêu bằng văn chương chữ nghĩa, đến quyển sách này là tột cùng của sự đau khổ rồi. Ngõ hầu như thế được chăng? Nó sẽ có thanh âm đặc biệt. Ai là người nghe thấy được, lại có thể họa theo được, để nối tiếp tiếng kêu của cuốn sách này mà kêu lên. Thì ở trên trời ta sẽ nghe tiếng kêu của họ” (Phương Lựu 2002: 257). Nếu nhà văn viết bằng “tột cùng của sự đau khổ” thì câu chữ sẽ có “thanh âm đặc biệt” nên chắc chắc sẽ lay động được trái tim người đọc, và người đọc sẽ đáp lại tiếng lòng ấy. Như vậy, người đọc trước tiên sẽ đến với những tác phẩm hay, giàu giá trị thẩm mỹ, sau đó mới mới tiếp nhận những giá trị khác. Vậy thẩm mỹ luôn là tiêu chuẩn rất quan yếu của văn chương nghệ thuật. Ngay từ thời trung đại, ông cha ta đã khẳng định điều đó.
4. Kết luận
Trong một thời đại mà văn chương có một vị trí vô cùng đặc biệt trong đời sống tinh thần của con người, dễ hiểu vì sao thời trung đại người ta tôn thờ tác phẩm nghệ thuật ngôn từ như là tôn giáo. Văn chương là sự tinh lọc của ngôn ngữ, là sự chưng cất của cảm xúc, là đỉnh cao của cảm hứng, v.v. nên nó là vị “thần của sắc đẹp”. Và bản chất đẹp ấy đã giúp con người thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ – một nhu cầu tinh thần không thể thiếu trong đời sống. Giúp con người sống hòa hợp với thiên nhiên, vui thú điền viên, không màng danh lợi như ý kiến của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Hữu Kiều, Nhữ Bá Sĩ, v.v.. Không chỉ thế, nó còn giúp con người nâng cao thị hiếu thẩm mỹ như phát biểu của Lê Thánh Tông, Lê Quý Đôn, Hoàng Đức Lương, Ngô Thì Nhậm, v.v.. Và cuối cùng, nó có thể khiến tâm hồn con người trong sáng, và cao thượng hơn như quan điểm của Phan Huy Ích, Lý Văn Phức, Ngô Thì Sĩ, v.v.. Nhìn chung, lý luận về chức năng thẩm mỹ thời trung đại có nhiều điểm có tính phổ quát, không chỉ có sự gặp gỡ với lý luận phương Đông, mà còn có nhiều nét tương đồng với lý luận phương Tây. Đó là lý do để nhiều nhà lý luận – phê bình hiện đại Việt Nam kế thừa và phát triển.
…………………………………………………..
* Tiến sĩ. Trường Đại học Sài Gòn
Tài liệu trích dẫn
Đỗ Văn Hỷ. 1993. Người xưa bàn về văn chương. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
Hoài Thanh – Hoài Chân. 1999. Thi nhân Việt Nam. Nhà xuất bản Văn học. Lê Giang (2001). Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam. Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Khâu Chấn Thanh. 2001. Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học.
Nguyễn Minh Tân chủ biên.1981. Từ trong di sản. Hà Nội: Nhà xuất bản Tác phẩm mới.
Nguyễn Du. 1997. Truyện Kiều. Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Vũ Thanh, Trần Nho Thìn tuyển chọn. 2007. 10 thế kỷ bàn luận về văn chương. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.
Phương Lựu – Trần Đình Sử – Nguyễn Xuân Nam – Lê Ngọc Trà – La Khắc Hòa -Thành Thế Thái Bình. 1997. Lý luận văn học. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.
Phương Lựu. 1985. Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.
Phương Lựu. 2002. Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.
Trần Thị Băng Thanh (2006). “Ngô gia văn phái, một hiện tượng của văn học Việt Nam”. Tạp chí Hán Nôm 3 (76): 3-12.
Trịnh Bá Đĩnh (chủ biên) – Đinh Thịu Minh Hằng – Cao Kim Lan – Lê Thị Dương – Trần Thiện Khanh. 2016. Lịch sử lý luận phê bình văn học Việt Nam hiện đại. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.