Bài của Z. Heinade, “Voprosy literatury” năm 2009, № 1 (Tạp chí Những vấn đề văn học, Nga, số 1-2009).
Từ Gogol đến Bunin và Pasternak, đó là những nhà văn Nga có khuynh hướng giới thiệu cho người đọc không chỉ những kinh nghiệm tình cảm – giác ngộ tôn giáo, cảm giác của tình yêu, kinh nghiệm về cái chết – mà còn cả những cảm xúc nguyên sinh: cảm nhận mùi vị, âm thanh, màu sắc… Họ tiến hành từ thực tế nghệ thuật là một biểu hiện của cảm xúc và kinh nghiệm – một trong những cách quan trọng nhất của sự hiểu biết cuộc sống. Vì vậy, họ dường như muốn vẽ một bản đồ của cấu trúc cảm thụ của con người.
Bunin là người tạo ra tầm nhìn tượng trưng hiện đại cho văn xuôi Nga. Những cách thức biểu hiện cảm xúc khác nhau – sự kỳ diệu của màu sắc, âm thanh, sự quyến rũ của mùi và hương vị, cảm xúc và thời gian – trong tiểu thuyết Cuộc đời Arseniev của Bunin (giải thưởng Nobel)- đó là mục đích của bài nghiên cứu này.
Không chỉ những ý tưởng và suy nghĩ có thể là đặc trưng cho thời đại, mà cả những âm thanh của nó, màu sắc, hương vị cũng là đặc trưng cho kỉ nguyên này. Mỗi nghệ sĩ có một kiểu biểu hiện: Oscar Wilde, García Lorca, nhà thơ Yesenin là thị giác. Ngược lại, Joyce Milton, một yếu tố rất quan trọng – âm thanh. Còn Tolstoy có một quyền lực về trí tưởng tượng, ông gần như chạm đến đôi mắt của tâm hồn.
Con người đắm mình trong thế giới và cảm nhận thế giới bằng năm giác quan (thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác và vị giác). Kinh nghiệm cảm giác được tạo bởi các giác quan – đó là kinh nghiệm linh hồn. Kinh nghiệm bên trong (giác quan bên trong) dẫn đến những mối liên hệ với tinh thần, cái thiêng liêng, bên trên thế giới vật chất và sự tồn tại trần thế. Cảm xúc chuyển sang tư duy nhận thức. Ngôn ngữ cổ xưa và nguyên thủy của cảm giác kết nối chúng ta với quá khứ, thông qua kinh nghiệm về màu sắc, âm thanh, mùi vị và cảm giác hữu hình…
Tác phẩm của Bunhin là dạng tiểu thuyết phi tuyến, nhiều thời gian- không gian cảm xúc được đặt gần nhau: quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong đó, chúng tương tác với nhau: quá khứ bây giờ và sau đó thâm nhập vào hiện tại và làm giàu hiện tại bằng kinh nghiệm của mình, luôn luôn có tác động đến tương lai.
Bộ nhớ của tuổi thơ vĩnh viễn đứng im, mãi mãi ràng buộc với những giấc mơ về một thời đại hoàng kim. Truyện của Bunin là bản giao hưởng từ biệt nền văn hóa xưa. Những diễn giải nên thơ và thần thoại về một khu vườn thiên đường, nơi tồn tại của Chúa và con người, sự cân bằng của thiên nhiên và văn hóa, đã trở thành huyền thoại về một thiên đường đã mất.
Trong một đoạn trữ tình ngoại đề, nhân vật của Bunin cảm thấy: Tại sao nhiều căn nhà, nhiều khu vườn với tình yêu bị bỏ rơi đã luôn được mô tả trong văn học Nga? Có lẽ vì những linh hồn Nga rất dễ bị tổn thương, những hình ảnh đó là niềm an ủi nỗi đau khổ, cô đơn, sự sụp đổ? Về câu hỏi cuối cùng có thể được trả lời theo cách này: vì chúng mang một thẩm mỹ vũ trụ Nga mà nhân vật mơ ước và mong muốn. Nhân vật Arseniev mong muốn một cuộc sống hoang dã, phù hợp với những cảm xúc mạnh mẽ, khát vọng tự nhiên về cuộc sống.
Arseniev cảm nhận cuộc sống như thơ. Hình ảnh nước Nga không chỉ là một cảnh quan tâm linh, mà còn là nơi chưng cất của những cảm xúc được hình thành trong những giấc mơ. Arseniev làm cuộc hành trình hoài cổ vào quá khứ, với những thành phố cổ: Smolensk, Vitebsk, Polotsk. Những thành phố có thực này không hề giống thành phố trong tưởng tượng. “Khi tôi cuối cùng đã có một Polotsk thực, tất nhiên, tôi không thể thấy nó tương tự chút nào giống thành phố tưởng tượng. Và trong tôi và cho đến nay, vẫn có hai Polotsk: một hư cấu, và – thực”.
Bunin và cả Arseniev đều nghĩ : Tôi sinh ra trong vũ trụ, sự vô cùng của không gian và thời gian. Một trong những phép đo của tưởng tượng là miêu tả về thế giới, đất đai: các thảo nguyên, bóng tối của những tán lá rừng, mùi của đất ẩm. Bầu trời chiều có mây thay đổi liên tục với cùng một bầu trời đầy sao. Tính chất đặc biệt của nó bao gồm sự nhạy cảm về màu sắc và ý thức về những thay đổi nhỏ xảy ra với ánh sáng và không khí. Trong cuốn tiểu thuyết, tác giả thừa nhận: “Chỉ nhìn lên hộp màu, tôi đã thấy cả người run rẩy, từ sáng đến tối, tôi mê mải tô màu lên giấy và đứng lặng hàng giờ ngắm bầu trời xanh tuyệt đẹp ngả dần sang màu huệ tím… Từ những ngày đó, tôi cảm nhận thật sâu sắc ý nghĩa cao quý và thiêng liêng của những sắc màu trái đất và bầu trời. Điểm lại những gì cuộc sống đã đem lại cho đời mình, tôi thấy rằng, đó là điều quan trọng nhất. Khoảng trời cao xanh ngả mầu huệ tím hiện ra giữa vòm cây cao ấy, đến khi chết, tôi vẫn còn nhớ tới”.
Ma lực của màu sắc là một đặc ân, cảnh được mô tả không chỉ là bức tranh mà còn bài thơ. Bunin mô tả cảnh cũng giống như vẽ tranh vậy. Khái niệm tư duy bị đình trệ trong nhận thức về thiên nhiên, và chỉ có trực giác có thể thâm nhập những bí ẩn của vũ trụ. Bunin là đạt được điều đó bằng cách kết nối vẻ đẹp của nó vào trung tâm của sự vật. Bức tranh đó chính là cuộc sống một cách toàn vẹn – chính nó là một sự đơn giản tuyệt vời, ý nghĩ tinh khiết, cảm hứng về ý nghĩa hiện sinh của cuộc sống, thái độ trầm tĩnh, ngay thẳng. Những cảm giác có được nhờ kinh nghiệm về màu sắc, ánh sáng và bóng tối. Theo Bunin, nhiều nhà thơ không biết làm thế nào để mô tả mùa thu, bởi vì họ không mô tả các màu sắc và bầu trời.
Có mối quan hệ giữa Bunin và triết học tự nhiên, trường phái ấn tượng Pháp, cả Thuyết phiếm thần, ngay cả với thơ haiku Nhật Bản, trong đó yêu cầu mô tả luôn luôn từ gián tiếp.
Nhân vật Arseniev cho rằng: tiểu thuyết “bao gồm các chương ngắn trong hai hoặc ba trang. Hầu như mỗi một đoạn đó đều được bắt đầu với một mô tả về thời tiết, tương ứng với một thời gian của năm, đó là một gợi ý tinh tế về tâm trạng của nhân vật, bởi vì “không có phân rẽ chúng ta từ thiên nhiên,” bởi vì “một sự chuyển động không khí nhỏ nhất cũng là sự chuyển động của linh hồn chúng tôi”.
Nhân vật Arseniev thời trẻ có năm giác quan chức năng hoàn hảo. Anh nghe thấy tiếng kêu của loài sóc buổi đêm, ngửi mùi hương của hoa huệ trong thung lũng, nhìn thấy màu sắc, hình dáng, bầu trời, sao, … bằng cảm giác bản năng.
Không chỉ thế, còn có sự tương giao cảm giác giữa các mùi vị, âm thanh, cái nhìn thấy, cái không nhìn thấy. Dưới ảnh hưởng của hương vị hay kích thích: âm thanh xuất hiện trong tầm nhìn màu sắc và ngược lại. Sự kết hợp bất ngờ đặt gần nhau. Những tương phản này dẫn đến hiệu ứng nghệ thuật độc đáo : cô gái, mùi hương hoa nhài, hoa hồng, cây liễu lá dài thơm, cay, nước ấm…. Cảm giác về hương vị, làn da trộn lẫn. Bunin đạt đến một thẩm mỹ mới có hiệu lực. Trong kết hợp và di chuyển âm thanh, màu sắc, mùi và hương vị có một số mối quan hệ sâu sắc hơn những gì mà các nhà tượng trưng Pháp nói đến.
Việc bảo tồn lâu dài những ấn tượng giác quan giúp tăng cường trí nhớ.
Các cảm giác trẻ trung trong ký ức, thật tinh tế: những cảnh tượng bơi lội mùa hè và hương vị của dâu tây và lá của cây liễu, hương thơm của hoa, cảm giác của da với làn nước ấm. Cùng với việc nhìn thấy và nghe các phương tiện chủ yếu của việc truyền tải thông tin môi trường là mùi, cảm ứng và cảm giác vị giác.
Bunin còn có một phạm vi kinh nghiệm vượt ra ngoài khuôn khổ thẩm mỹ thị giác, khứu giác, xúc giác. Đó là kinh nghiệm của cơ thể được thực hiện bằng miệng, mũi, ngón tay…
Đặc biệt, miêu tả về phụ nữ: làn môi ngọt ngào không thể diễn tả được, đôi vai tròn, vòng eo… Nhân vật Lisa, Tônka hiện thân của sự quyến rũ các giác quan cơ thể.
Những phụ nữ, mà Arseniev cảm thấy thu hút, đều là hiện thân cho nguyên tắc “nữ tính vĩnh cửu”: sự tiếp xúc với cơ thể của người phụ nữ anh yêu, mùi nước hoa, chiếc váy mềm, áo choàng, các cành cây đen trong đêm, khu vườn, ngôi sao lấp lánh, mùi hoa violet trong mái tóc đen. Arseniev thấy trong thế giới này có một điều gì vĩnh cửu.
Sự trống trải của nỗi cô đơn và vô gia cư không lấp đầy những kỷ niệm, màchỉ làm nặng thêm nó. Dưới ảnh hưởng của những kỷ niệm đánh thức bản năng tiềm ẩn, Arseniev trưởng thành có thể quay lại thế giới cũ với sự tươi mát, trẻ trung. Thế giới vô hình được kết nối (xưa và nay), xuất hiện cùng một lúc nhưng không hợp nhất .
Thậm chí, thời gian cũng làm thay đổi màu sắc: trên màu vàng của cuộc sống, của tuổi trẻ, màu xanh lá cây chiếm ưu thế thời nhân vật ở Nga, ngụ ý sức sống tươi vui, hạnh phúc và hy vọng. Còn cuộc sống thời lưu vong là màu sắc buồn : màu đồng sunfat. Bút pháp này có tính chất gợi, giống triết học phương Đông và nghệ sĩ Nhật Bản.
Sự trống rỗng thể hiện qua trạng thái mất màu. Nhân vật nhìn thấy vợ mình trong giấc mơ: Khuôn mặt mờ dần vẻ đẹp duyên dáng, váy mỏng, giống áo tang.
Tình yêu của Bunin thường được gắn liền với hình ảnh của cái chết. Ông không chỉ sở hữu một cảm giác tinh vi về cuộc sống, mà cả về cái chết. Ở trung tâm của cuộc đời luôn luôn là cái chết, và cái chết ở trung tâm của cuộc sống như một dấu chấm đen (âm) ở giữa màu trắng và trắng điểm (dương) ở trung tâm của màu đen. Trong việc định hình số phận của Arseniev và Leakey, Bunin mô tả không chỉ cái không hề có sự viên mãn của cuộc sống, mà còn cả nỗi tuyệt vọng bi thảm của mỗi cuộc gặp gỡ và chia ly. Giống như, Bunin đã không tìm thấy trong tình yêu chìa khóa mở những bí mật của hạnh phúc.
Thế giới âm thanh cũng vô tận như thế giới màu sắc. Sự chuyển đối giai điệu dẫn đến sự tương phản màu sắc âm thanh. Màu sắc thường làm rõ định nghĩa của âm thanh, bởi vì màu sắc là một thuộc tính của sự vật, và giọng nói – biểu hiện của nó.
Bunin chứng minh rằng, mỗi giai điệu rung động duy nhất của âm thanh, cùng với sự kết hợp giữa mùi và vị có thể đại diện cho tất cả các sắc thái của chúng. Các mô tả kết hợp hình ảnh với cái hữu hình trên thế giới thính giác: mắt xanh đang cười, gối mới, cứng và trắng, giọng nói trống rỗng… Ông có thể tìm thấy bất kỳ hoặc nhân tạo âm sắc tự nhiên của âm thanh: tiếng lanh lảnh, kêu như còi, âm thanh mềm mại, giọng run run…Đó là một bảng màu phong phú của các sắc thái giọng nói con người, trong đó chúng ta lắng nghe niềm vui nỗi buồn của chính mình. Tiếng nói có thể xác nhận ý tưởng về danh tính của người mang nó.
Ngôn ngữ của Bunin đơn giản, sạch và đẹp như tranh vẽ. Nhưng đồng thời giàu hình ảnh và các mối quan hệ âm thanh – từ ca hát đến tiếng chuông, tiếng suối, tiếng chim hót, âm nhạc…Trong văn Bunin, tiếng nói của thiên nhiên không bao giờ ngừng được xem xét, được liên kết hữu cơ với thế giới nhiều màu sắc, đa âm của con người.
Âm nhạc và âm thanh làm cho tai của chúng ta niềm vui, giống như mũi – ngửi thấy mùi thức ăn thơm ngon. Bây giờ chúng ta phân tích sự can thiệp của mùi và hương vị. Về mùi vị, không ai giỏi bằng Bunin và Gogol. Bunin phân biệt rõ ràng tất cả các mùi, mùi táo, hương vị cay nồng của mùi phân trong chuồng…
Arseniev là một nghệ sĩ thực sự của mùi: mùi của cây ngưu bàng, mùi sương của cỏ ẩm ướt, mùi lạnh của cỏ ngoài sân, mùi hoa, mùi căn hộ, mùi thành phố…
Không khí của cuốn tiểu thuyết là không khí của các màu sắc, âm thanh, hương liệu, và hương vị, đầy màu sắc sắp xếp cạnh nhau và kết hợp trong đó.
Bunin miêu tả cả thực phẩm và đồ uống cụ thể. Ăn uống là một loại nghi lễ, tượng trưng cho sự thật đơn giản là con người không thể tách rời đất đai, như trong vũ trụ tất cả như nhau: Bắt chước cậu bé chăn cừu, bạn có thể cho muối mặn vào lớp vỏ bánh mì đen và cây hành tây xanh lá cây dài, củ cải đỏ, củ cải trắng, quả dưa chuột…Chúng tôi có bữa ăn này cho mình mà không nhận ra nó được gắn liền với mặt đất, tất cả những cảm giác, thực tế, từ đó thế giới đã được tạo ra.
Kết luận: Tăng cường vai trò của cảnh thơ mộng, âm thanh, mùi vị là một biểu tượng của sự nhạy cảm mãnh liệt của văn học Nga. Bunin không chỉ là một tiểu thuyết gia, sử dụng xuất sắc cảm giác, mà còn là một nhà thơ. Tầm cảm giác của ông cao hơn nhiều người khác và chiếm lĩnh được toàn bộ quang phổ màu sắc và toàn bộ âm thanh, một cách tinh tế. Mục tiêu của ông là đánh thức các giác quan cho người đọc và tầm nhìn của con mắt vật lí siêu hình, thấy và nghe cả những cái vô hình. Đó là những gì có thể đạt được thông qua tài năng thi ca của các bậc thầy vĩ đại của ngôn từ.
Các mặt thế giới đa chiều trở nên dễ tiếp cận đầy đủ khi có được tầm nhìn siêu nhiên. Theo Fyodor Stepun, Bunin có không chỉ là con mắt đại bàng ban ngày, mà còn con mắt cú đêm. Nghệ thuật của Bunin thực sự là cái nhìn mới về cuộc sống. Trường hợp của ông – tinh thần hóa cảm xúc và làm cho cái tinh thần trở nên hữu hình.
Lê Lưu Oanh lược dịch từ tiếng Nga